Bộ sưu tập di sản kiến trúc Việt Nam gồm 12 bức tranh lấy cảm hứng từ nét đẹp kiến trúc văn hóa Việt Nam, sau đó tái hiện lại nó trong không gian siêu thực.
Mỗi một công trình của Việt Nam được xây dựng lên đều mang trong mình những câu chuyện dân gian thú vị. Dự án chính là xuất phát từ những câu chuyện này để vẽ lên 12 bức tranh di sản kiến trúc Việt Nam, bộc lộ bằng hình ảnh trời, mây, sông, biển… Thông qua đó kể cho thế hệ mai sau về vẻ đẹp muôn màu muôn vẻ của quê hương Việt Nam và ý tưởng xây dựng tuyệt vời của người xưa.
Trong lịch sử Việt Nam thời cận đại, Kinh Thành Huế có lẽ là công trình có quy mô lớn nhất với sự tham gia xây dựng của hàng vạn nhân công. Các công việc diễn ra trong 30 mươi năm dưới triều đại của 2 vị vua: đào hào, lấp sông, di dân, di dời lăng mộ và xây dựng thành quách …
Tương truyền, trước khi chọn thế đất để xây dựng kinh thành, vua Gia Long đã đến chùa Thiên Mụ để cầu xin Bà Trời chỉ dẫn. Bà Trời bảo vua thắp nén hương cưỡi ngựa chạy ngược dòng sông Hương, đến đâu hương tắt thì đó là vị trí định đô của nhà Nguyễn.
Vua Gia Long làm theo lời chỉ dẫn, nén hương tắt ngay đoạn uốn hình vòng cung bên cạnh sông Hương. Thế đất nơi đây hội tụ đủ các yếu tố sông núi hiền hòa, đất đai bằng phẳng.
Kinh thành Huế được xây dựng theo lối zichzac lồi lõm, hình vuông, có 11 cửa ra vào, 24 pháo đài, tường thành cao, mỗi góc thành có đài quan sát, xung quanh thành có hào nước sâu. Các kỳ đài, lầu, vọng đài… bên trong Kinh thành Huế đều được điêu khắc, trang trí tỉ mỉ, nền móng, mái nhà… thể hiện rõ sự kế thừa phong cách kiến trúc truyền thống Việt Nam.
Bức tranh trong dự án Sợi Mắc Sợi Mành vẽ lại Cổng Ngọ Môn - một phần quan trọng của Hoàng thành Huế. Ngọ Môn là cổng lớn nhất trong 4 cổng chính của Hoàng thành. Hai bên của kinh thành là hòn Dã Viên và hòn Hến, tượng trưng cho “tả Thanh Long, hữu Bạch Hổ” để thể hiện sự tôn kính vương quyền. Đó cũng là nguồn cảm hứng cho bức tranh "Ngọa hổ tàng long".
Có thể nói, Kinh thành Huế là một công trình kiến trúc tỉ mỉ đến từng chi tiết thiết kế và phong thủy, tiêu biểu cho sự hình thành và phát triển của Mỹ thuật triều Nguyễn, ngụ ý ở đây là mong muốn thịnh vượng, đất nước có thái bình hay không phụ thuộc rất nhiều vào hoàng đế.
Mùa đông năm 1397, vào tháng 11, Hồ Quý Ly ép vua Trần Thuận Tông dời đô từ kinh thành Thăng Long về thành An Tôn (nay thuộc xã Vĩnh Long, Thanh Hóa), đây là kinh đô thứ hai của nước Đại Việt tại cuối thời Trần, gọi là Tây Đô, sau khi Hồ Quý Ly lên ngôi và thành lập nhà Hồ, dân gian vẫn quen gọi là Thành nhà Hồ.
Tương truyền, vào lúc ấy, Hồ Quý Ly đã chọn vùng đất này vì tin rằng nơi đây có thế rồng chầu rắn cuốn, có thể thịnh trị đến 60 năm. Nhưng Hồ Hán Thương, người con thứ của ông lại nhận định rằng vùng đất này còn non, đất ẩm, chỉ có thể thịnh trị trong thời gian ngắn ngủi 6 năm. Thực tế nhà Hồ là triều đại tồn tại ngắn nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam, chỉ từ năm 1400 đến 1407.
Thành nhà Hồ được xây dựng bằng những viên đá dài khoảng 1,5m, dày 1m, nặng vài chục tấn và không hề dùng chất kết dính. Toàn bộ công trình bao gồm Thành Nội, Hào Thành - La Thành và Đàn tế Nam Giao.Đây cũng là di sản kiến trúc Việt Nam bằng đá có quy mô lớn nhất và là thành luỹ bằng đá hiếm hoi còn sót lại trên thế giới.
Trong dự án Sợi Mắc Sợi Mành, bức tranh Thành nhà Hồ dùng hình ảnh rồng chầu rắn cuốn để thể hiện biểu tượng uy quyền của vương triều.
Mặt khác, ta cũng có thể giải thích ý nghĩa bức tranh theo tầm nhìn địa lý. Xung quanh kinh đô này là dòng sông Mã, được coi là trung tâm với nhiều nhánh sông đổ về. Mỗi nhánh sông được coi là một bộ phận hợp thành, tựa như một con rồng lớn, xét về mặt ý nghĩa hay yếu tố tự nhiên thì đó thực sự là thế đất “rồng chầu, rắn cuốn” trong truyền thuyết.
Ngày xưa, cộng đồng người Việt, người Nhật và người Hoa tại Hội An hay truyền tai nhau câu chuyện về nguyên nhân gây ra động đất. Họ tin rằng dưới lòng đại dương có một loài thủy quái mà người Việt gọi là Cồn Cù, người Nhật gọi là Namazu, người Trung Quốc gọi là “Câu Long”, đầu ở Nhật, đuôi ở Ấn Độ và lưng vắt qua Hội An.
Theo thần thoại Nhật Bản, Namazu là một con cá da trơn khổng lồ. Mỗi khi con quái vật di chuyển, quăng mình, đất sẽ rung chuyển, Nhật Bản bị động đất, Hội An không ổn định, người dân không thể kinh doanh buôn bán.
Từ câu chuyện này, họ đã thiết kế và xây dựng nên chùa Cầu. Chùa Cầu có hình dáng một thanh kiếm, có ý nghĩa che chắn cho sông Hoài, đâm thẳng vào xương sống của con quái vật, ngăn nó nổi cơn thịnh nộ.
Tuy thiết kế và xây dựng bởi người Nhật Bản nhưng chùa Cầu vẫn mang đậm dấu ấn kiến trúc Việt Nam, thể hiện rõ qua các lớp mái thái âm dương. Toàn bộ cây cầu được làm bằng gỗ, sơn và chạm khắc nhiều họa tiết tinh xảo.
Hai bên cầu là hai bức tượng khỉ và chó, hai vị thần trấn giữ namazu trong truyền thuyết dân gian của người Nhật. Chùa Cầu không thờ tượng Phật. Gian chính giữa chùa thờ Bắc Đế Trấn Võ - vị thần bảo hộ xứ sở, ban niềm vui hạnh phúc cho con người.
Dọc theo miền Champa, từ Bắc chí Nam, đến tận Ninh Thuận, Bình Thuận, nơi ngày xưa gọi là Panduranga, người Chăm Pa vẫn sinh sống ở đó, vẫn duy trì văn hóa, thờ cúng và gọi tháp bằng tên của các vị thần: Po Rome, Po Tam, Po SahInu ... Trong số các tháp mang tên các vị thần, Po Klong Garai là quần thể đền thờ linh thiêng và tráng lệ nhất.
Tương truyền, Po Klong Garai là vị vua có nhiều công trạng đối với người Chăm trong việc chống giặc ngoại xâm, khai mương, đắp đập làm cho ruộng đồng tươi tốt. Tháp Po Klong Garai gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của Panduranga – vùng đất cực nam của vương quốc Chăm pa, nay thuộc địa phận tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận. Tháp Pô Klong Garai là một tổng thể gồm ba tháp: tháp chính cao 20,5m, tháp lửa cao 9,31m, tháp cổng cao 8,56m. Công trình này có trình độ kiến trúc, nghệ thuật, điêu khắc đạt đến đỉnh cao.
Người Chăm đã để lại cho nhân loại nhiều di sản văn hóa có giá trị, tiêu biểu là những tháp gạch và tác phẩm điêu khắc độc đáo, gạch là vật liệu chính để xây dựng nên những ngôi tháp hùng vĩ này, tuy nhiên chất kết dính, cách nung gạch và kỹ thuật xây tháp của người Chăm vẫn còn một bí ẩn.
Do đặc điểm khí hậu khô nóng, ngoài nông nghiệp, người Chăm Nam Trung Bộ phát triển mạnh nghề làm gốm và dệt, bức tranh trong dự án Sợi Mắc Sợi Mành cũng được lấy cảm hứng từ những làng nghề đó.
Vào mùa xuân năm Canh Dần (930), có một người tên là Cao Công và vợ là Lã Thị ở hương Văn Kỳ, huyện Gia Định, phủ Thuận An, đạo Kinh Bắc. Họ là một hộ gia đình rất nghèo, sống bằng nghề đánh cá trên sông, cả hai rất thích làm việc thiện.
Một hôm hai người đánh cá trên sông Như Nguyệt, kéo được 15 lượng vàng, kể từ đó cả hai làm ăn phát đạt nên cuộc sống rất khá giả, tiếc là cả hai đều đã ngoài 50 tuổi mà vẫn chưa có con.
Hai ông bà nghe nói ở đền Hữu Linh, trang Sơn Lộ là nơi linh ứng cầu gì được nấy, bèn đến đó cầu tự. Thuyền đang đi xuôi theo dòng sông Đáy, trời bỗng nhiên tối sầm lại và nổi một trận gió lớn.
Lúc này thuyền đã đến địa phận trang Sơn Lộ, hai người ngẩng đầu nhìn lên trời thấy có đám mây vàng hướng vào bà mà hạ xuống. Lã thị hoảng sợ, nằm miên man. Sau đó bà có mang. Tháng 2 năm Quý Tỵ (933), bà sinh được 3 người con trai. Ba đứa trẻ lớn lên thành những chàng trai khoẻ mạnh rồi theo Đinh Tiên Hoàng đi dẹp loạn 12 sứ quân.
Đình So được xây dựng vào năm 1673 để thờ Tam vị Đại tướng quân, ba người con của truyền thuyết nói trên, được coi là ngôi đình cổ kính mẫu mực nhất, đứng đầu xứ Đoài, dân gian có câu “Lộng lẫy như đền So, bề thế như đền Cạn” cũng là vì thế.
Đình So được xây dựng hài hòa với thiên nhiên, trở nên uy nghiêm hơn khi màn đêm buông xuống - khi vắng bóng người, để lại không gian cho cảnh vật và thiên nhiên soi bóng trăng. Đây cũng là cảm hứng để vẽ nên bức tranh về đình So trong dự án Sợi Mắc Sợi Mành.
Tương truyền, khi chúa Nguyễn Hoàng trong một lần đi dọc bờ sông Hương ở thượng nguồn thì bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên gần với làn nước trong xanh, địa thế ở đó tựa như một con rồng đang quay đầu nhìn lại, phong cảnh hữu tình.
Hỏi ra mới biết đây là đồi Hà Khê, dân tình còn truyền tai nhau chuyện mỗi đêm có một bà già mặc áo đỏ thường xuất hiện trên đồi và nói với mọi người rằng: “Rồi đây sẽ có một vị chúa đến chùa để tụ linh khí, ổn định long mạch, đưa nước Nam trở nên toàn năng”.
Dường như số phận đã an bài, tư tưởng lớn lao của chúa Nguyễn Hoàng đã bắt kịp tâm nguyện của nhân dân, năm 1601, ngôi chùa được xây dựng và đặt tên là chùa Bà Thiên Hậu, ngụ ý nhắc nhở về bà cụ trong những câu chuyện cổ.
Tháp Phước Duyên - biểu tượng nổi tiếng gắn liền với ngôi chùa này. Từ xa có thể nhìn thấy ngôi tháp bảy tầng vươn cao trên đỉnh đồi Hà Khê bên sông Hương. Mỗi tầng tháp đều có thờ tượng Phật, bên trong có cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên tầng trên cùng, nơi trước đây có thờ tượng Phật bằng vàng.
Bức tranh vẽ lại tháp Phước Duyên với vẻ đẹp hiền hòa và lãng mạn, như đang ngụ trên mặt nước bồng bềnh.
Thành Cổ Loa là công trình xây dựng với quy mô độc đáo của người dân Âu Lạc. Thành được xây dựng theo hình xoắn ốc gồm 3 vòng khép kín, tổng chiều dài là 16 km và cao 10m. Đào đất đến đâu khoét hào đến đó, thành đắp đến đâu lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong thoai thoải để ngoài đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ.
Thành Cổ Loa gắn với câu chuyện về chiếc nỏ thần một phát bách trúng, về chuyện thần Kim Quy mách vua cách đắp xây thành lũy. Bên cạnh yếu tố lịch sử, thành Cổ Loa còn gắn liền với câu chuyện Trọng Thủy - Mỵ Châu và lòng thủy chung son sắt của người phụ nữ Việt Nam. Bức tranh muốn miêu tả góc nhìn này với hình ảnh những chiếc lông ngỗng bồng bềnh như mây trời, tạo nên một vẻ đẹp vừa sắc sảo vừa nhẹ nhàng.
Minh Mạng tên huý là Nguyễn Phúc Đảm, là con thứ tư của vua Gia Long. Minh Mạng lên ngôi năm 1820, là vị hoàng đế thứ hai của triều Nguyễn. Ông được xem là vị vua giỏi nhất triều Nguyễn vì tinh thông nhiều lĩnh vực từ kinh tế chính trị cho đến văn hóa quân sự. Dưới thời của ông, giang sơn thu về một mối, lãnh thổ cũng được mở rộng nhất trong lịch sử Việt Nam.
Trị vì tới năm thứ 7, vua Minh Mạng bắt đầu cho người đi tìm vùng đất để đặt lăng mộ của mình sau này. Quá trình này phải tuân thủ theo nguyên tắc phong thủy nên mất rõng rã 14 năm tìm kiếm.
Đến năm 1840, khi vua Minh Mạng thượng thọ 50 tuổi mới quyết định chọn ngã ba Bằng Lãng, nơi hợp lại Tả trạch và Hữu trạch của con sông Hương, làm “thuỷ tụ” – “minh đường” để xây lăng. Đây là nơi tụ thuỷ, tụ khí, tụ phúc cho con cháu.
Nhờ tuân theo nguyên tắc sơn thuỷ mà lăng Minh Mạng trở thành một công trình kiến trúc vô cùng đặc biệt, không chỉ về kiến trúc mà cả tinh thần. Lăng có sự kết hợp hài hoà giữa cái cổ kính của các công trình nhân tạo và cảnh quan thiên nhiên nên rất thơ mộng.
Tòa Minh Lâu là một phần của quần thể Lăng Minh Mạng, được vẽ lại một cách đầy nghệ thuật trong tranh dự án Sợi Mắc Sợi Mành. Tòa Minh Lâu có 17 bậc cầu thang bằng đá dẫn vào chốn bồng lai tiên cảnh với nhiều bóng mát của cây cối và hương hoa thoang thoảng.
Cổng Đền Hùng được xây kiểu vòm cuốn cao 8,5 m, hai tầng 8 mái, lợp ngói ống. Tầng dưới có một cửa vòm cuốn lớn, 4 góc tầng mái trang trí Rồng, đắp nổi hai con Nghê. Hai bên cửa vòm có đắp nổi phù điêu 2 võ sỹ, một người cầm giáo, một người cầm rìu chiến. Giữa tầng một có đề bức đại tự: “Cao sơn cảnh hành” (lên núi cao nhìn xa rộng).
Bức tranh thuộc dự án Sợi Mắc Sợi Mành tái hiện toàn cảnh cổng Đền Hùng được đặt trong một không gian rực rỡ, bên trên là ánh sáng mặt trời tỏa ra, lấy cảm hứng từ chiếc trống đồng Đông Sơn - một biểu tượng văn hóa cũng như minh chứng cho lịch sử truyền thuyết của các Vua Hùng.
Mặt đất là cánh đồng xanh mượt, tiêu biểu cho nền văn minh lúa nước, cũng là niềm tự hào của người Việt Nam. Bầu trời với hoa văn từ trống đồng phản chiếu màu kim loại đồng, dưới thời vua Hùng nông nghiệp lúa nước và nghề đúc đồng là nghề tiêu biểu của nền văn hóa bấy giờ, đó cũng chính là ý tưởng chủ đạo mà bức tranh muốn hướng tới diễn tả.
Đối với người J'rai và Bahnar ở Tây Nguyên, nhà Rông được coi là linh hồn của buôn làng, là thánh địa của trời đất, là nơi hội tụ của sông núi che chở cho dân làng. Nhà Rông còn được xem là bảo tàng lưu giữ những hiện vật truyền thống gắn liền với lịch sử của làng như cồng chiêng, trống, vũ khí, đầu các con vật hiến tế trong các nghi lễ.
Nhà Rông là tài sản vô giá luôn gắn liền với cộng đồng của mỗi buôn làng Tây Nguyên. Những mái nhà Rông sừng sững là sự thể hiện ý chí, khát vọng của dân làng muốn chinh phục và chiến thắng số phận. Vì vậy, bên cạnh giá trị vật chất, nhà Rông còn chứa đựng một tầng văn hóa tinh thần rất bền vững của người Tây Nguyên.
Nhà Rông không phải là nhà ở của người Tây Nguyên, tuy có kết cấu và vật liệu tương tự như nhà sàn nhưng công trình này có những đường nét kiến trúc độc đáo, cao và rộng hơn, dải trang trí dài dọc theo mái đình là điểm khác biệt mà nhà sàn không có được.
Nhà Rông thể hiện sự giàu có, thịnh vượng và quyền lực của làng, là nơi để các già làng họp bàn mọi công việc của cộng đồng, họp dân làng, tiến hành các nghi lễ phong tục cộng đồng và cũng là nơi tiếp khách ngoài làng.
Trong văn hóa các dân tộc Tây Nguyên, mọi sinh hoạt cộng đồng đều gắn với hình ảnh vòng tròn, từ lễ hội chém trâu, lễ cúng thần, cầu mùa màng tươi tốt, sinh hoạt ... đến những hình ảnh đặc trưng trong Văn hóa cồng chiêng luôn sử dụng những hình tròn.
Tranh vẽ trong dự án Sợi Mắc Sợi Mành lấy cảm hứng từ những hình tròn đó. Ngôi nhà Rông dưới mây ánh lên màu huyền ảo, khắc họa rõ nét vẻ đẹp và nét độc đáo của văn hóa các dân tộc Tây Nguyên.
Khi du lịch Hà Nội và ghé thăm Hồ Gươm không thể không nhắc đến Tháp Rùa - biểu tượng của thủ đô nghìn năm văn hiến. Công trình này tuy nhỏ nhưng ẩn chứa trong đó là ý nghĩa lịch sử, dấu tích vượt thời gian.
Tháp Rùa nằm giữa lòng hồ Hoàn Kiếm, là một hồ nước ngọt tự nhiên nằm ở trung tâm thành phố Hà Nội, hồ có diện tích khoảng 12 ha. Truyền thuyết kể rằng có một hôm vua Lê Lợi đang dạo chơi trên thuyền, bỗng có con rùa vàng nổi lên mặt nước đòi vua trả lại thanh gươm mà Long vương cho Lê Lợi mượn để đánh đuổi quân Minh xâm lược trước đó, vua liền trả gươm cho rùa thần.
Rùa lặn mất tích, từ đó hồ có tên là Hồ Hoàn Kiếm, tên hồ cũng được đặt cho một quận trung tâm của Hà Nội (quận Hoàn Kiếm) và là hồ duy nhất của quận này cho đến ngày nay.
Kiến trúc Tháp Rùa kết hợp phong cách kiến trúc Châu Âu với những dãy cửa cong kiểu gothic ở hai tầng phía dưới nhưng phần mái cong trên cùng lại mang phong cách kiến trúc Việt Nam.
Chùa Tam Chúc được xây dựng từ thời nhà Đinh, gắn liền với truyền thuyết “tiền lục nhạc, hậu thất tinh”.
Truyền thuyết xưa kể lại rằng, tại đây có bảy ngọn núi hiện lên với những đốm sáng lớn như 7 ngôi sao, ngày cũng như đêm chiếu ánh sáng lung linh từ trên cao xuống cả một vùng rộng lớn, người dân ở đó gọi đó là núi “Thất tinh”.
Sau đó, một số người đã đến núi Thất Tinh để đục phá 7 ngôi sao lạ đó. Họ đã gom củi chất thành từng đống lớn và đốt trong nhiều ngày khiến 4 ngôi sao lụi tàn. Cuối cùng chỉ còn lại 3 ngôi sao, nên chùa "Bảy Sao" sau đổi thành chùa "Ba Sao".
Giữa không gian thiên nhiên hùng vĩ ấy, chùa Ngọc nổi lên như một ngôi sao sáng giữa đất trời hội tụ, linh thiêng và thanh tịnh. Chùa Ngọc nằm trên đỉnh núi Thất Tinh (thuộc quần thể chùa Tam Chúc) được xây dựng từ 2.000 tấn đá không xi măng.
Công trình có sự ảnh hưởng từ phong cách chùa cổ truyền Việt Nam. Phong cảnh xung quanh chùa rất hùng vĩ và đầy mê hoặc. Chùa được ví như một bệ thờ để tri ân những ưu ái mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người.
Bức tranh trong dự án Sợi Mắc Sợi Mành đã khắc họa vẻ đẹp huyền ảo của chùa Ngọc dưới góc nhìn đầy nghệ thuật.
Trên đây là vẻ đẹp của 12 di sản kiến trúc Việt Nam gắn liền với các câu chuyện văn hóa, truyền thuyết dân gian xưa, được khắc họa dưới góc nhìn hội họa. Nếu có dịp, mời bạn ghé đến từng địa điểm để tận mắt ngắm nhìn và tìm hiểu về từng công trình đặc biệt này.
(Theo Báo Thể Thao Việt Nam)