dân tộc Sán Dìu
Người Sán Dìu ở Bắc Giang sống tập trung ở một số huyện như: Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam và sống xen kẽ với các dân tộc: Hoa, Kinh, Tày, Nùng trong các làng, xã của huyện Yên Thế và Lạng Giang. Theo số liệu thống kê năm 2000 của Sở Văn hoá-Thông tin (nay là Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch) tỉnh Bắc Giang đồng bào Sán Dìu trên địa bàn tỉnh có khoảng 23.779 người đứng sau dân tộc Sán Chay (Cao Lan-Sán Chí) ở trong tỉnh. Ngôn ngữ của đồng bào Sán Dìu thuộc nhóm ngôn ngữ Hán-Tạng nhưng người Sán Dìu lại có phong tục tập quán riêng và có ý thức về thành phần dân tộc mình rất rõ rệt. Đến Việt Nam và vào Bắc Giang cách nay 3-4 thế kỷ nhưng ngay từ những ngày đầu, người Sán Dìu đã tạo cho mình một cuộc sống ổn định trên vùng đất này. Họ sống chính bằng sản xuất nông nghiệp. Ngoài vệc trồng lúa nước họ còn biết trồng cây hoa màu, cây ăn quả trên ruộng khô và trên các đồi gò. Có thể nói, người Sán Dìu có nhiều kinh nghiệm trong việc khai thác vùng đất trung du để sinh sống. Sắc thái văn hóa người Sán Dìu khá phong phú, thể hiện ở các phong tục, tập quán, lễ nghi của họ và tục rửa cày bừa là một trong những sắc thái văn hóa đặc sắc ấy.
Trong một năm, người Sán Dìu có nhiều lễ tiết. Tháng 7 âm lịch, họ có Tết Mười Tư (14/7). Tết Mười tư tháng Bảy âm lịch của người Sán Dìu được tổ chức trong khuôn khổ gia đình hoặc dòng tộc nhưng khá thịnh soạn bởi nó có ý nghĩa văn hóa truyền thống. Vào ngày này, cả làng, bản, dòng tộc làm lễ cúng gia tiên và thần Nông cẩn báo với các bậc linh thiêng: công việc đồng áng cấy cày vụ mùa đã vừa xong, tiết Hạ đã qua và chuyển sang tiết Thu, nhà nông sắp sửa làm những công việc mới của tiết Thu. Người Sán Dìu thường gọi Tết Mười Tư (14/7) là “Lễ rửa cày bừa” hoặc “Lễ lên đồng” vì trước đó họ có “Lễ xuống đồng” vào dịp đầu tháng 6 âm lịch, lúc sắp bước vào cấy vụ mùa.
Vụ cấy lúa mùa (lúa đông xuân) xưa của người Sán Dìu rất quan trọng vì một năm đồng bào chỉ có một vụ lúa nước. Vào vụ lúa này, đồng bào còn trồng các loại cây hoa màu, lương thực khác như đỗ, lạc, ngô, khoai… Sản phẩm vụ mùa có ý nghĩa quyết định đến đời sống gia đình đồng bào Sán Dìu trong năm. Đồng bào làm lụng rất vất vả, kỹ lưỡng từng khâu trong sản xuất mong đạt được năng suất thu hoạch cao. Vì thế, sau khi kết thúc việc cấy trồng vụ đông xuân, đồng bào vui mừng như được "xả hơi", trút được gánh nặng cơ bản trong năm.
Lễ vật đặc sắc không thể thiếu trong mâm cúng gia tiên, thần Nông trong Lễ rửa cày bừa là món bánh nhân điền. Để làm được loại bánh này nguyên liệu cần có: Bột gạo nếp, đỗ xanh (mặn hoặc ngọt để dùng làm nhân), lạc rang, đường đen và lá mít. Bột gạo nếp được nhào, vật thành từng con bột vừa tầm tay rồi cho vào luộc chín, vớt các con bột luộc chín ra đánh quện thật dẻo rồi nặn bánh, tra nhân vào theo sở thích của mỗi gia đình. Khi bánh làm xong được đặt lên các lá mít đã rửa sạch rồi cho vào nồi hấp cách thủy. Bánh cũng có thể ăn ngay được nếu trong quá trình làm không để lẫn bột sống và nhân bánh đã được làm chín trước. Bánh nhân điền có ý nghĩa quan trọng trong cuộc Lễ. Những nguyên liệu dùng làm bánh là sản phẩm được chọn lọc lại từ vụ mùa năm trước dành để cúng tạ thần nông, gia tiên với mong ước vụ mùa năm nay được mưa thuận gió hòa, cho thu hoạch cao hơn năm trước.
Sau Lễ rửa cày bừa, bước sang tiết Thu, trai gái, già trẻ người Sán Dìu xưa thường tổ chức đi chơi đến các làng, bản lân cận hoặc xa hơn để hát đối-hay gọi là hát soọng cô-thể hiện tâm trạng vui mừng vừa làm xong một vụ mùa nặng nhọc vất vả, cũng là lúc để anh em, bạn bè chia sẻ, tâm giao và kết thêm bạn mới. Tại cuộc Lễ đó, thầy cúng cũng cầu mong gia tiên che chở cho đoàn đi soọng cô được vui vẻ, an toàn, có thêm nhiều bạn mới.
Ngày nay, mặc dù thời điểm kết thúc công việc cấy trồng vụ mùa có sớm hơn do sử dụng các giống cây trồng ngắn hạn nhưng Lễ rửa cày bừa của người Sán Dìu vẫn được duy trì tổ chức cúng đúng ngày. Chỉ có điểm khác xưa là: Sau ngày Lễ rửa cày bừa, đồng bào Sán Dìu ít tổ chức đi soọng cô để thụ hưởng đời sống văn hóa tinh thần mà thay vào đó, họ làm các việc khác nhằm nâng cao đời sống về kinh tế cho gia đình và dòng tộc.
Thanh Huyền