Thông tin du lịch Bắc Giang

Trang chủ Du lịch công cộng Khám phá Nghiên cứu và Trao đổi Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực du lịch trong tình hình mới

Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực du lịch trong tình hình mới

Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, ngành Du lịch đang gặp những thách thức không nhỏ về nhiều mặt, trong đó có yếu tố nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực du lịch có vai trò quyết định đến chất lượng dịch vụ du lịch Việt Nam. Thời gian qua, công tác phát triển nguồn nhân lực du lịch mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, song vẫn còn tồn tại nhiều bất cập cần giải quyết nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực du lịch chính là giải pháp quan trọng nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ cho du lịch Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Thác Bản Giốc - Cao Bằng. Ảnh: Thế Phi

1. Đặt vấn đề

Phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt nguồn nhân lực chất lượng cao, đang là thách thức đối với du lịch Việt Nam trước yêu cầu hội nhập quốc tế. Đây cũng là vấn đề đặt ra trong việc xây dựng thương hiệu sản phẩm du lịch Việt Nam một cách bền vững. Trong khuôn khổ diễn đàn ATF, so với các nước trong khu vực, thì chất lượng dịch vụ du lịch Việt Nam nói chung và tại các trung tâm du lịch lớn vẫn còn hạn chế. Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến thực trạng đó, theo ý kiến chung của nhiều chuyên gia, là do nguồn nhân lực du lịch Việt Nam hiện nay vừa thiếu về số lượng lại vừa yếu về chuyên môn, nghiệp vụ. Để tạo ra sản phẩm du lịch có sức cạnh tranh cao thì chất lượng của nguồn nhân lực du lịch đóng vai trò quyết định quan trọng. Chỉ khi chiến lược phát triển nguồn nhân lực được quan tâm đúng mức và hợp lý mới duy trì được thương hiệu và chất lượng phục vụ trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Đặc biệt trong bối cảnh thỏa thuận MRA-TP cho phép dịch chuyển lao động du lịch có tay nghề thuộc khối ASEAN. Một người lao động tại Việt Nam có thể làm việc tại các nước thành viên ASEAN, trong khi đó, Việt Nam cũng có thể thu hút các lao động có trình độ để đáp ứng được các vị trí đòi hỏi trình độ cao đang bị thiếu hụt nhân lực.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và hậu COVID-19, nhu cầu về nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao ở nước ta ngày càng tăng. Theo đó, yêu cầu đối với nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao cũng ngày càng cao, đặc biệt yêu cầu về chất lượng, kỹ năng nghiệp vụ, trình độ quản lý, ngoại ngữ và cơ cấu hợp lý. Các nước có ngành Du lịch phát triển đều quan tâm vấn đề này và đầu tư cho việc phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao. Trước thực tế này, các cơ sở đào tạo nhân lực du lịch cần có giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực du lịch Việt Nam. Để thực hiện mục tiêu đưa du lịch Việt Nam trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển bền vững và đóng góp xứng đáng vào sự phát triển kinh tế - xã hội, đòi hỏi cần phải có những chính sách đột phá, các giải pháp tổng thể nhằm xử lý ngay những khó khăn, vướng mắc, trong đó không thể không nhắc đến vấn đề phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao.

2. Nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao

Có nhiều cách hiểu khác nhau về nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao. Theo cách tiếp cận định tính thì nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao là một bộ phận cốt lõi của nguồn nhân lực du lịch, có khả năng đáp ứng những yêu cầu phức tạp của công việc trong hoạt động du lịch, từ đó tạo ra năng suất và hiệu quả cao trong công việc, có những đóng góp đáng kể cho sự tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp du lịch nói riêng và sự nghiệp phát triển du lịch của một địa phương và quốc gia nói chung, lôi kéo cộng đồng và toàn xã hội vào sự nghiệp phát triển du lịch.

Theo cách tiếp cận theo định lượng thì nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao được hiểu là những người lao động đã qua đào tạo du lịch[1], có bằng cấp và trình độ chuyên môn kỹ thuật từ trình độ cao đẳng, đại học đến trên đại học (nguồn nhân lực lãnh đạo, quản lý và hoạch định chính sách, nguồn nhân lực khoa học, công nghệ, đội ngũ giảng viên các trường đại học, cao đẳng…) và nhân lực du lịch lành nghề là các nghệ nhân và lao động trực tiếp xếp bậc 3 trở lên. Trong tham luận này, nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao được hiểu là một bộ phận đặc biệt của nguồn nhân lực du lịch, bao gồm những người có trình độ học vấn từ cao đẳng, đại học trở lên đảm nhiệm các chức danh quản lý nhà nước về du lịch (là các cán bộ, công chức du lịch); các chức danh hoạt động sự nghiệp du lịch (các viên chức du lịch: nghiên cứu viên du lịch; giáo viên, giảng viên du lịch); các chức danh quản trị doanh nghiệp du lịch (trưởng các bộ phận hoạt động kinh doanh du lịch trở lên); các lao động lành nghề là những nghệ nhân, những nhân lực du lịch trực tiếp được xếp từ bậc 3 trở lên, đang làm việc trong các lĩnh vực của ngành Du lịch, có những đóng góp thiết thực và hiệu quả cho sự phát triển bền vững, có trách nhiệm của ngành Du lịch.

3. Phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao

3.1 Quan niệm

Có thể hiểu phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao là một phần của phát triển nguồn nhân lực du lịch, là tổng thể các hình thức, phương pháp, chính sách và biện pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng cho nguồn nhân lực (trí tuệ, thể chất và phẩm chất tâm lý-xã hội) làm gia tăng số lượng và điều chỉnh cơ cấu nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội và phát triển du lịch trong từng giai đoạn phát triển. Phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao bao hàm quá trình đào tạo, bồi dưỡng, về kiến thức chung liên quan đến nghề nghiệp, kiến thức nghề nghiệp, kỹ năng nghề nghiệp, văn hóa và sức khỏe nghề nghiệp, sử dụng và đãi ngộ nhân lực du lịch chất lượng cao.

Phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao bao hàm: 1) Quá trình giáo dục, đào tạo, dạy nghề, huấn luyện và bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch về kiến thức chung liên quan đến nghề nghiệp, kiến thức nghề nghiệp, kỹ năng nghề nghiệp, văn hóa, thái độ và sức khỏe nghề nghiệp du lịch; 2) Tuyển dụng nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao, cho các vị trí làm việc ở tất cả các nhóm nhân lực quản lý nhà nước về du lịch, nhân lực sự nghiệp du lịch, nhân lực quản trị kinh doanh và nhân lực tác nghiệp; 3) Bố trí và sử dụng nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao với các chức danh phù hợp, vị trí cần thiết cho hoạt động du lịch; 4) Đãi ngộ, trả lương, bảo hiểm xã hội đối với nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao.

Cách tiếp cận trên có thể cho phép hiểu phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao là quá trình phát triển thể lực, trí lực, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tay nghề, tính năng động của xã hội và sức sáng tạo của con người; nền văn hóa; truyền thống lịch sử… Do đó, phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao đồng nghĩa với quá trình nâng cao năng lực xã hội và tính năng động xã hội trên các mặt: thể lực, trí lực, nhân cách. Đồng thời phân bố, sử dụng và phát huy có hiệu quả nhất năng lực đó để phát triển đất nước.

Dưới góc độ xã hội, phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao được hiểu là việc tăng trưởng về số lượng, nâng cao về chất lượng, hợp lý về cơ cấu nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao. Cả ba yếu tố trên đều có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó yếu tố nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao thường được chú trọng hơn, nhưng số lượng (hay quy mô) nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao và cơ cấu của nó cũng không kém phần quan trọng.  

3.2 Nội dung phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao

Để tăng số lượng, nâng cao chất lượng và hợp lý hoá cơ cấu nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao cần căn cứ chính sách phát triển nguồn nhân lực của địa phương, vùng, quốc gia; chính sách phát triển quy mô, mật độ và cơ cấu dân số; chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội; chiến lược, quy hoạch tổng thể phát triển du lịch, kế hoạch, các chương trình, dự án phát triển du lịch. Trong chiến lược phát triển du lịch và quy hoạch tổng thể phát triển du lịch cần đánh giá tiềm năng và hiện trạng phát triển du lịch, trong đó có đánh giá về hiện trạng và tiềm năng của nguồn nhân lực du lịch, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao; định hướng phát triển nhân lực du lịch chất lượng cao, cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu; các giải pháp tổ chức thực hiện phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao.

1) Phát triển quy mô nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao

Số lượng nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao được quyết định bởi số lượng học sinh, sinh viên đang tham gia học các khóa đào tạo du lịch ở các cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp du lịch các cấp đào tạo, từ sơ cấp đến trung cấp, cao đẳng, đại học và sau đại học. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, có rất nhiều người được đào tạo, dạy nghề về du lịch, nhưng khi ra trường họ lại làm việc tại một lĩnh vực khác, và ngược lại, nhiều lao động không được đào tạo, dạy nghề chuyên ngành du lịch, nhưng lại làm du lịch. Vì vậy, thống kê về số lượng lao động du lịch, trong đó có nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao, thường xuyên thay đổi và rất khó kiểm soát.

Bên cạnh nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao trực tiếp, còn có nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao gián tiếp, những người không tham gia trực tiếp vào hoạt động động du lịch, nhưng không kém phần quan trọng, như cộng đồng dân cư ở các điểm đến du lịch. Lực lượng này thường là gấp đôi nhân lực du lịch trực tiếp. Vì vậy, cũng cần khẳng định rằng, nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao cũng được quyết định bởi nhân lực du lịch gián tiếp. Đây là một “nguồn” cung cấp cho nhân lực du lịch chất lượng cao trực tiếp. Thực tế hiện nay, việc phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao gián tiếp chưa được quan tâm đúng mức.

Phát triển số lượng nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao còn là việc thu hút nguồn nhân lực ở các ngành khác tham gia vào hoạt động du lịch. Việt Nam đang trên đà hội nhập kinh tế thế giới, kéo theo sự thay đổi cơ cấu dân số thành thị, nông thôn, phản ánh một xu hướng dân cư di chuyển từ nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp để kiếm việc làm. Điều này có ý nghĩa về mặt chuyển dịch cơ cấu địa phương nói riêng của vùng nói chung. Mặt khác trong nền kinh tế thị trường thường có hiện tượng dịch chuyển công việc, “nhảy việc”, sự mất việc phải tìm cơ hội mới. Du lịch cũng là một lĩnh vực có sự biến động kiểu này của nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao có cơ hội thu hút các đối tượng nhân lực này vào làm trong các vị trí, các chỗ làm việc phù hợp với “nhóm nhân lực này”.

Do đặc tính của ngành Du lịch là một ngành mang tính quốc tế cao và hoạt động không biên giới, vì thế, một trong những biểu hiện của phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao là việc thu hút và sử dụng lao động quốc tế. Đối với các nước có ngành Du lịch phát triển thường thuê lao động ở các quốc gia khác vào làm việc, chủ yếu là ở các vị trí lao động trực tiếp cung cấp dịch vụ. Ngược lại, ở các quốc gia đang phát triển hoặc kém phát triển cả về kinh tế và du lịch, thì nhu cầu về nguồn nhân lực có trình độ quản lý và chuyên môn cao về du lịch là rất lớn. Đa phần số lượng nguồn nhân lực du lịch quốc tế được thuê đảm nhận ở các vị trí quản lý, giám đốc, cán bộ điều hành, giám sát… Điều này có nghĩa là làm tăng, hay phát triển nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao của quốc gia, vùng, miền, địa phương thuê nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao từ quốc gia và vùng lãnh thổ khác.

2) Phát triển chất lượng nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao

Việc phát triển chất lượng nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao chủ yếu được đánh giá thông qua các tiêu chí về sức khỏe, trình độ học vấn, chuyên môn và các năng lực phẩm chất cá nhân. Đặc trưng của ngành Du lịch là làm việc trực tiếp với cường độ kéo dài, áp lực lao động cao, vì thế điều kiện được xem là tiên quyết của nhân lực du lịch và nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao là sức khỏe, gồm cả thể lực và trí lực. Người lao động cần rèn luyện để có một thể lực tốt bằng cách luyện tập thể dục, thể thao và có chế độ ăn uống hợp lý, chế độ nghỉ ngơi khoa học có thể đáp ứng được khối lượng lớn công việc dưới một áp lực khá cao. Chỉ khi có thể lực tốt thì mới có thể giữ cho tinh thần và trí tuệ được minh mẫn, sáng suốt, biến tri thức thành sức mạnh vật chất và tham gia vào quá trình lao động sản xuất trong hoạt động du lịch.

Chất lượng của nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao phát triển dựa trên sự phát triển của tri thức của người lao động trong ngành Du lịch. Đây là yếu tố quyết định đánh giá khả năng thực hiện nhiệm vụ được giao có kết quả hay không. Phát triển chất lượng nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần vào sự phát triển kinh tế, cải thiện trình độ dân trí và đáp ứng được yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Vì thế, việc đào tạo, dạy nghề, huấn luyện và bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao, phải được ưu tiên và thỏa mãn các tiêu chuẩn trình độ học vấn và trình độ chuyên môn và nghiệp vụ.

Nhìn chung, tùy vào vị trí và tính chất công việc mà yêu cầu trình độ học vấn, nhưng nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao trực tiếp được yêu cầu ở mức tối thiểu phải tốt nghiệp phổ thông trung học. Vì du lịch là ngành dịch vụ mang tính phục vụ cao, sự hài lòng của khách hàng phụ thuộc rất nhiều vào sự thuần thục của lực lượng nhân lực du lịch, trong đó có nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao. Do đó, đòi hỏi tất cả những người hoạt động trong ngành Du lịch phải được đào tạo, dạy nghề, huấn luyện và bồi dưỡng qua các lớp nghiệp vụ, chuyên môn dài hạn hoặc ngắn hạn. Đối với nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao trực tiếp, phải tham dự các khóa huấn luyện về kỹ năng nghề, nghiệp vụ về lễ tân, nhà hàng, buồng, bar, bếp, hướng dẫn du lịch… Đối với những người làm công tác quản lý nhà nước về du lịch, nghiên cứu du lịch, các giáo viên, giảng viên giảng, đào tạo viên đào tạo, dạy nghề, huấn luyện và bồi dưỡng du lịch thì yêu cầu phải có trình độ chuyên môn từ bậc đại học trở lên. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu và toàn diện, dưới sự tác động đa chiều với tốc độ cao của xu hướng chuyển đổi số, của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao phải có khả năng ngoại ngữ và tin học đáp ứng được yêu cầu công việc.

Mặt khác, chất lượng nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao cũng được đánh giá qua việc phân tích, đánh giá chất lượng đào tạo, dạy nghề của hệ thống các cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp du lịch, huấn luyện và bồi dưỡng du lịch, bởi các yếu tố trong hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật của cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp du lịch có đảm bảo tốt cho công tác giảng dạy và học tập hay không. Cụ thể là phòng học và các trang thiết bị để dạy và học lý thuyết, thực hành nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học… phải được xây dựng và nâng cấp để kịp thời đáp ứng cho nhu cầu đào tạo của xã hội. Du lịch là ngành mang tính thực tiễn cao, vì thế hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật đào tạo, dạy nghề du lịch càng hiện đại, mang tính ứng dụng cao, phù hợp cho việc thực hành các nghiệp vụ du lịch sẽ tạo tiền đề cho người học có kiến thức và kỹ năng vững vàng trước khi thực hiện các yêu cầu nghề nghiệp.

Đối với các công chức quản lý nhà nước về du lịch, viên chức nghiên cứu, đào tạo, dạy nghề du lịch và giáo viên, giảng viên, đào tạo viên trực tiếp giảng dạy du lịch cần phải được thường xuyên cập nhật tri thức và nâng cao kỹ năng nghiệp vụ. Bởi đội ngũ giảng viên, giáo viên, đào tạo viên là những người truyền tải kiến thức, kinh nghiệm, là những người quyết định đến chất lượng của học viên. Họ chính là điều kiện để đánh giá chất lượng đào tạo, dạy nghề của các cơ sở  giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp du lịch, huấn luyện và bồi dưỡng du lịch nói riêng và hệ thống trường học nói chung.

3) Hợp lý hóa cơ cấu nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao

Bên cạnh định hướng phát triển số lượng, nâng cao chất lượng, thì định hướng về cơ cấu nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao, cơ cấu đào tạo, dạy nghề hợp lý cho các nghề trong du lịch cũng đóng vai trò quan trọng không kém. Để đảm bảo được tính hiệu quả kinh tế-xã hội thì cơ cấu đội ngũ nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao theo trình độ và các cấp trong hệ thống hệ thống giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp du lịch nói chung cho quản lý nhà nước, hoạt động sự nghiệp và kinh doanh du lịch cần phải xác định rõ. Điều này sẽ làm giảm thiểu sự mất cân bằng cầu-cung lao động trên thị trường lao động du lịch, không gây lãng phí nguồn nhân lực của xã hội.

Cơ cấu nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao có thể được xác định độ tuổi, giới tính, theo lĩnh vực hoặc nghiệp vụ du lịch (lễ tân, buồng, bàn, bếp, hướng dẫn du lịch…), theo chức năng (quản lý, lao động trực tiếp), theo trình độ, không gian, vùng. Việc phân chia cơ cấu nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao du lịch hợp lý là khi cơ cấu giữa các nhóm nhân lực du lịch chất lượng cao tương ứng với các ngành nghề, vị trí công việc và sự phù hợp của các nhóm nhân lực du lịch chất lượng cao  tương ứng với yêu cầu phát triển của doanh nghiệp, của không gian lãnh thổ du lịch, nhằm khai thác tối ưu nguồn lực doanh nghiệp và tài nguyên du lịch.

4. Một số kiến nghị, đề xuất nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch Việt Nam trong tình hình mới

4.1. Tiêu chuẩn hoá nhân lực du lịch Việt Nam

Từ năm 2017, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch xác định là năm du lịch phải tăng tốc để bước vào giai đoạn hội nhập khi mà Cộng đồng Kinh tế ASEAN chính thức hình thành vào cuối năm 2015 và thừa nhận lẫn nhau trong hệ thống tiêu chuẩn nghề của du lịch. Thỏa thuận này được các nước trong cộng đồng ASEAN rất quan tâm và nhiều nước đã đi tiên phong. Trong đó, nhân lực là yếu tố cốt lõi cho sự phát triển của mọi ngành nghề, đặc biệt là ngành du lịch. Các nước ASEAN nói chung hay Việt Nam, việc đào tạo nguồn nhân lực du lịch theo khung trình độ đã được thừa nhận là điều kiện tiên quyết để xây dựng ngành du lịch hội nhập quốc tế. Khi Thỏa thuận về nghề du lịch ASEAN chính thức có hiệu lực, sẽ có nhiều lao động trong khối ASEAN đến Việt Nam làm việc.

Nhằm đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực có chất lượng cho ngành Du lịch tại Việt Nam, Chương trình Phát triển Năng lực Du lịch có trách nhiệm với Môi trường và Xã hội, do Liên minh châu Âu tài trợ (Dự án EU) đã sửa đổi bộ Tiêu chuẩn Kỹ năng nghề Du lịch Việt Nam (VTOS). Toàn bộ các tiêu chuẩn này đã được đăng tải trên trang thông tin điện tử http://vtos.esrt.vn/ bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh; giúp người lao động, người sử dụng lao động, giáo viên và học sinh các trường du lịch tiếp cận, áp dụng và thực hiện theo tiêu chuẩn VTOS nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch cũng như hiệu quả đào tạo nghề du lịch một cách thống nhất. Tiêu chuẩn nghề du lịch Việt Nam sửa đổi ngoài việc kế thừa các nội dung từ phiên bản trước đã được phát triển phù hợp với các quy định của Việt Nam cũng như được chuẩn hóa, tương thích với các tiêu chuẩn nghề quốc tế, tiêu chuẩn ASEAN.

4.2. Áp dụng tiêu chuẩn VTOS

Thoả thuận thừa nhận lẫn nhau trong ASEAN về nghề du lịch (MRA-TP) được xây dựng nhằm cho phép chuyển dịch việc làm của người lao động du lịch lành nghề giữa các quốc gia thành viên và để công nhận các kỹ năng và văn bằng của người lao động du lịch từ các quốc gia thành viên khác trong ASEAN. Trước thực tế này, các cơ sở đào tạo/dạy nghề sẽ phải rà soát chương trình đào tạo và văn bằng để đảm bảo rằng chúng phù hợp với hoặc liên kết với chương trình du lịch chung ASEAN nhằm cấp ra những văn bằng thích ứng/tương đương cho sinh viên hoặc người thực tập. Bên cạnh đó, cần xem xét xem các văn bằng hoặc các chương trình đào tạo hiện tại phải điều chỉnh hoặc thay đổi như thế nào nhằm đáp ứng các yêu cầu của ASEAN về thừa nhận văn bằng du lịch lẫn nhau.

Xuất phát từ yêu cầu thực tế nêu trên, xin đưa ra một số khuyến nghị đối với các cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp du lịch trong triển khai áp dụng Bộ Tiêu chuẩn VTOS trong giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch Việt Nam đáp ứng yêu cầu xã hội và hội nhập quốc tế như sau:

1) Thiết kế chương trình đào tạo/dạy nghề tiếp cận theo chuẩn đầu ra - năng lực cốt lõi của mỗi vị trí việc làm gắn với thực tế thị trường lao động. Đồng thời, hướng đến tính "mở", "linh hoạt", phù hợp cho việc áp dụng vào từng đối tượng, địa chỉ cụ thể.

2) Biên soạn chương trình, bài giảng, giáo trình các học phần/môn học/mô-đun chuyên môn theo hướng tích hợp giữa lý thuyết và thực hành. Trong đó, thời lượng dành cho phần thực hành chiếm tỷ lệ từ 70-75% tổng thời gian học tập.

3) Thay đổi phương pháp giảng dạy của giảng viên/giáo viên, học tập của học sinh/sinh viên theo hướng tích cực, chủ động. Nội dung bài giảng cần được thiết kế mang tính trực quan, sinh động và cụ thể với các mẫu, phiếu, biểu, hình ảnh, phim… gắn với thực tế nghề nghiệp, gắn với doanh nghiệp.

4) Thay đổi phương pháp kiểm tra, đánh giá trên cơ sở đánh giá "năng lực", bao gồm cả 3 yêu cầu: kỹ năng, kiến thức, thái độ. Cuối kỳ, thay vì thi viết, học sinh/sinh viên được thi thực hành và vấn đáp để kiểm tra các đơn vị "năng lực" đã được học. Tập trung chủ yếu vào việc đánh giá "năng lực" chuyên môn nghiệp vụ và giao tiếp ngoại ngữ. Đây chính là cách đánh giá rất sát thực với lực học của học sinh/sinh viên.

5) Gắn kết giữa cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp du lịch với doanh nghiệp du lịch trong quá trình đào tạo, thực hành, thực tập của học sinh/sinh viên để tạo điều kiện thu hẹp khoảng cách giữa đào tạo và sử dụng lao động sau tốt nghiệp.  Tuy nhiên, việc áp dụng Bộ Tiêu chuẩn VTOS trong giảng dạy còn gặp nhiều khó khăn do số đơn vị "năng lực" nhiều, trong khi thời lượng giảng dạy cho học phần/môn học/mô-đun chuyên môn lại hạn chế (đặc biết đối với các cơ sở giáo dục đại học). Việc điều chỉnh chương trình để tăng thời lượng các học phần/môn học/mô-đun chuyên môn cũng gặp khó khăn do những quy định "cứng nhắc" bởi sự ràng buộc của chương trình khung, của yếu tố "tâm lý" giáo viên/giảng viên các bộ môn khác nhau (đặc biết đối với các cơ sở đào tạo/dạy nghề công lập). Bên cạnh đó, sự đầu tư trang thiết bị, dụng cụ thực hành, phương tiện nghe - nhìn, hệ thống học liệu, phòng học đa năng còn rất hạn chế để có thể áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực đối với nhiều cơ sở đào tạo/dạy nghề.

4.3. Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động đào tạo

Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạy - học, nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Theo đó, mỗi cơ sở đào tạo nhân lực du lịch trong thời gian cần triển khai hệ thống thông tin quản lý, cơ sở dữ liệu. Bên cạnh đó, triển khai hệ thống quản lý hành chính điện tử và liên thông toàn ngành; hệ thống họp, hội thảo, tập huấn chuyên môn qua mạng; bổ sung, cập nhật các dịch vụ công trực tuyến tối thiểu mức độ 3, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin tuyển sinh đầu khóa. Đồng thời, quản lý sinh viên, quản lý giảng viên, quản lý giáo án, bài giảng số, quản lý thi, xếp thời khóa biểu, sổ quản lý điện tử; tích hợp với trang tin điện tử của nhà trường trên môi trường mạng ở tất cả các khóa học.

Đối với giảng viên phải đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin để đổi mới nội dung, phương pháp dạy - học, kiểm tra đánh giá và nghiên cứu khoa học. Phải xây dựng và thường xuyên cập nhật kho học liệu số dùng chung, gồm: Bài giảng, giáo trình, đề thi điện tử, học liệu số đa phương tiện, phần mềm mô phỏng và các học liệu khác. Tiếp tục xây dựng và thường xuyên cập nhật hệ thống ngân hàng câu hỏi trực tuyến của các môn học và phần mềm kiểm tra, đánh giá tập trung qua mạng phục vụ sinh viên, giảng viên trên nguyên tắc thiết thực, hiệu quả. Ngoài ra, các cơ sở đào tạo du lịch phải đầu tư xây dựng và hoàn thiện cổng thư viện số (giáo trình, bài giảng, học liệu số) liên thông, chia sẻ học liệu với các cơ sở đào tạo khác nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu, đào tạo trong giáo dục đại học; triển khai hệ thống học tập trực tuyến (E-learning); khai thác, ứng dụng các phần mềm quản lý doanh nghiệp du lịch, khách sạn, lữ hành vào trong quá trình giảng dạy cho sinh viên.

4.4. Tăng cường đào tạo trực tuyến kết hợp đào tạo truyền thống

Cuộc cách mạng khoa học công nghệ thông tin đã có những tác động lớn đến ngành giáo dục, đào tạo trực tuyến từ nhiều năm trước đây đã là khái niệm không còn mới mẻ đối với nhiều người, tuy nhiên sự bùng phát của đại dịch COVID-19 đã khiến cho việc dạy và học trực tuyến trở thành xu hướng tất yếu. Trong tương lai, các khóa học trực tuyến chắc chắn sẽ trở thành hướng phát triển mới của nhiều cơ sở đào tạo bởi những ưu điểm thấy rõ của nó như giúp người học có thể tiếp cận kiến thức một cách dễ dàng hơn nhờ giảm chi phí đào tạo, hạn chế việc đi lại, chủ động, linh hoạt về mặt thời gian. Các cơ sở đào tạo cũng sẽ trở nên thành thạo và linh hoạt hơn trong việc cung cấp các khóa học theo nhiều phương thức khác nhau. Điều này cho phép họ đối phó với các tác động ngắn hạn và trung hạn do bệnh dịch, thiên tai gây ra đối với hoạt động đào tạo.

Đào tạo trực tuyến mở rộng cơ hội giao lưu với toàn cầu, những người giỏi nhất trong lĩnh vực du lịch ở bất kỳ đâu trên thế giới cũng có thể đào tạo sinh viên với tư cách là khách mời hoặc làm giảng viên thỉnh giảng. Những “mentor” - người cố vấn dày dặn kinh nghiệm trong nghề có thể nhận hướng dẫn, truyền cảm hứng cho sinh viên. Duy trì việc tổ chức những webinar, workshop online để kết nối mạng lưới giữa người dạy, người học và doanh nghiệp trên phạm vi rộng lớn nhằm cổ vũ tinh thần hoc tập, hướng đạo thái độ nghề nghiệp một cách kỹ càng, đồng thời cập nhật những diễn biến, xu hướng mới của ngành, nghề.

Tuy nhiên, với một số đặc điểm của hoạt động đào tạo nguồn nhân lực du lịch thì việc ứng dụng hoàn toàn công nghệ thông tin trong quá trình đào tạo khó có thể được coi là giải pháp thay thế mà chỉ là giải pháp tình thế. Để ứng phó với việc sinh viên không thể tới trường tham gia các tiết học thực hành, thực tập tại các doanh nghiệp du lịch, thực tập và kiến tập trên những tour, tuyến điểm du lịch… chắc chắn sẽ cần thêm thời gian để tìm hiểu, nghiên cứu các giải pháp có hiệu quả hơn. Những sự thay đổi trong công tác đào tạo cần thời gian nhất định để nghiên cứu, thí điểm và kiểm định kết quả trước khi áp dụng đại trà. Đối với những môn học đã chứng minh được kết quả khả quan thông qua đào tạo trực tuyến, các cơ sở giáo dục vẫn có thể tiếp tục triển khai giảng dạy thông qua hình thức này.

4.5. Cập nhật nội dung chương trình đào tạo

Nội dung chương trình đào tạo trực tuyến sẽ được xây dựng theo hướng mở, phù hợp cho nhiều đối tượng. Nhiều chương trình đào tạo truyền thống cũng có thể lồng ghép các nội dung giảng dạy trực tuyến nhằm giải quyết bài toán về thời gian, chi phí và nhân sự đào tạo. Bên cạnh đó, các nội dung đào tạo cũng sẽ tập trung vào mục đích hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực có khả năng ứng dụng những tiến bộ công nghệ để thực hiện việc du lịch thông minh. Điều này nhằm đáp ứng các yêu cầu của thị trường tuyển dụng, cần một đội ngũ nhân sự bắm vững các kiến thức và kỹ năng liên quan đến ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kinh doanh du lịch. Các cơ sở giáo dục đào tạo sẽ lồng ghép thêm nhiều kỹ năng về tin học, truyền thông đa phương tiện để người học có được những kỹ năng thiết yếu trong thời đại mới. Cập nhật thường xuyên các kiến thức mới về du lịch thông minh và công nghệ số, nghiệp vụ thương mại điện tử. Bên cạnh đó, để đáp ứng được các yêu cầu của thị trường tuyển dụng, cá nhân người học cần phải có ý thức tự trau dồi năng lực ngoại ngữ, tin học và tích cực rèn luyện để có kỹ năng phù hợp với yêu cầu của xã hội thời đại 4.0.

4.6. Nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới trong đào tạo

Ứng dụng công nghệ vào giảng dạy là một xu thế tất yếu, có vai trò quan trọng và sẽ đem lại lợi ích nhất định cho các cá nhân, tập thể và cho toàn xã hội. Tổ chức UNESCO dự báo: Công nghệ thông tin sẽ làm thay đổi nền giáo dục một cách cơ bản và toàn diện, có hệ thống và mang tính hội nhập cao vào đầu thế kỉ XXI. Những công nghệ mới sẽ được nghiên cứu và ứng dụng vào trong hoạt động đào tạo nguồn nhân lực du lịch. Thực tế ảo trong đào tạo (Virtual Reality in Education) là một công nghệ mà các cơ sở đào tạo du lịch có thể sử dụng tới trong tương lai. Thông qua ứng dụng công nghệ thực tế ảo, sinh viên có được trải nghiệm thực tế về các điểm đến du lịch cũng như một số khu vực trong nhà hàng, bếp, khách sạn bằng những mô phỏng 3D hay 4D. Công nghệ VR mang lại cho sinh viên cách tiếp cận dễ hiểu, phong phú và hấp dẫn hơn so với việc học tập thông qua sách, trang web hoặc thậm chí video. Đặc biệt là trong các bối cảnh mà quá trình đi thực tế, thực tập không thể thực hiện được, thì những tác động do sự gián đoạn gây ra cũng được giảm thiểu tối đa.

4.7. Tăng cường bồi dưỡng công nghệ thông tin cho đội ngũ giáo viên, giảng viên du lịch

Một trong những nhân tố chủ yếu quyết định sự thành công của giáo dục là đội ngũ giáo viên, giảng viên. Vì vậy để khắc phục các khó khăn trong triển khai đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở bất kì giai đoạn nào cũng cần đặt trọng tâm ở công tác nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, giảng viên. Tuy nhiên dưới tác động của dịch bệnh COVID-19 và tương lai phát triển dài hạn của cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0, những biện pháp như tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn, sử dụng công nghệ thông tin phục vụ dạy học cần được thực hiện đều đặn và thường xuyên tại mỗi cơ sở đào tạo. Cụ thể: Bồi dưỡng cho giảng viên chủ động tham gia các hình thức đào tạo tiên tiến, đào tạo trực tuyến, để vừa nâng cao trình độ, vừa tiếp cận các mô hình dạy học mới, qua đó giúp họ bổ sung kiến thức, đa dạng hóa các hình thức giảng dạy. Bên cạnh đó, mỗi giảng viên cần tích cực xây dựng và cập nhật kho học liệu số dùng chung, gồm bài giảng, giáo trình, để thi điện tử, học liệu số, các phần mềm mô phỏng và các học liệu khác cần thiết. Ngoài ra cần có sự liên kết, chia sẻ học liệu với các cơ sở đào tạo khác nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu, đào tạo, giảng dạy cho đồng bộ.

4.8. Liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp

Các cơ sở có giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp du lịch phải gắn kết với hiệp hội nghề nghiệp, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch để dự báo nhu cầu lao động, xây dựng chuẩn đầu ra và đào tạo học sinh, sinh viên, học viên có kỹ năng đáp ứng yêu cầu ngành nghề: 1) Thoả thuận doanh nghiệp là nơi thực hành, thực tập của cơ sở đào tạo; sử dụng cơ sở vật chất, trang thiết bị, phần mềm… của doanh nghiệp để đào tạo thực hành. Thời gian đào tạo tại các doanh nghiệp ít nhất bằng tổng thời gian thực hành, thực tập của chương trình đào tạo và không ít hơn 50% tổng thời gian thực hiện chương trình đào tạo; 2) Doanh nghiệp cử chuyên gia tham gia giảng dạy, hướng dẫn thực hành, thực tập, đánh giá kết quả học tập của người học; 3) Phối hợp dự báo nhu cầu nhân lực của các ngành Du lịch về số lượng, yêu cầu chất lượng; phối hợp đầu tư cơ sở vật chất theo hướng đẩy mạnh xã hội hóa, tăng cường hợp tác công tư, chú trọng xây dựng các cơ sở thực hành, thực tập chất lượng cao, theo chuẩn mực khu vực và quốc tế phục vụ đào tạo nhân lực du lịch.

Các cơ sở đào tạo du lịch các cấp cần phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp để có những phương án tối ưu trong tổ chức đào tạo nhằm bù đắp phần nào thiếu hụt trong học tập thông qua thực tế do tác động của dịch bệnh. Hiệp hội các doanh nghiệp theo nhóm (lữ hành, khách sạn…) cần bắt tay với các trường để chuẩn bị nguồn nhân lực cho sự phục hồi du lịch sau dịch COVID-19: hỗ trợ xây dựng, tối ưu các giáo án điện tử, cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao có thể tham gia giảng dạy trực tuyến tại các trường. Tận dụng nguồn tài nguyên hiện đang nhàn rỗi do dịch bệnh, tổ chức các webinar, diễn đàn trực tuyến kết nối giữa nhà trường, doanh nghiệp và sinh viên tạo cơ hội được bày tỏ, chia sẻ và tháo gỡ các vướng của các bên và tìm tiếng nói chung trong nỗ lực chung phát triển ngành du lịch. Cần có chính sách thu hút đội ngũ chuyên gia từ doanh nghiệp để cùng tham gia xây dựng bài giảng trong các học phần đào tạo trực tuyến. Các cơ sở đào tạo cần có nhiều giải pháp phối hợp, liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp chuyên cung cấp công nghệ đào tạo trực tuyến và doanh nghiệp có nhu cầu về nhân lực ứng dụng công nghệ trong vận hành. Các hoạt động này trong giai đoạn dịch bệnh sẽ giúp duy trì kết nối chặt chẽ giữa ba bên. Đặc biệt, cơ sở đào tạo và doanh nghiệp cần thực hiện tốt chức năng tư vấn, định hướng nghề nghiệp nhằm giúp sinh viên giảm bớt các sức ép tâm lý do các tác động của dịch bệnh đến ngành Du lịch gây ra.

5. Kết luận

Nguồn lực con người là yếu tố quyết định mọi hoạt động - điều mang tính “chân lý” này thường được nhắc đến và được khẳng định ở mọi bình diện từ một tổ chức nhỏ đến quốc gia lớn, từ một khu vực đến toàn cầu. Nhưng không phải ở đâu, bất cứ ai và khi nào cũng nhận thức đầy đủ về tính quyết định của nguồn nhân lực và giành nguồn lực cho việc đào tạo phát triển nguồn nhân lực, do nguồn lực không có nhiều lại bị các nhiệm vụ cấp bách khác chi phối. Hiện tượng phổ biến khi phân bổ nguồn lực cho chiến lược, chính sách phát triển thường bao giờ cũng ưu tiên cho xây dựng cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật và chi thường xuyên, còn nguồn lực cho đào tạo nguồn nhân lực thường xếp vào hàng thứ yếu. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch của Việt Nam cũng không nằm ngoài tình trạng như vậy.

Trước bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và tình hình hậu COVID-19, ngành Du lịch Việt Nam đang gặp những thách thức không nhỏ về nhiều mặt, trong đó có yếu tố về nhân lực. Nguồn nhân lực du lịch có vai trò quyết định không chỉ cho riêng sự phát triển du lịch, mà còn góp phần không nhỏ vào việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhiều năm qua, ngành Du lịch đã có những cố gắng huy động cộng đồng, các thành phần kinh tế và sự hỗ trợ của quốc tế cho phát triển nguồn nhân lực. Công tác phát triển nhân lực ngành Du lịch mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng vẫn còn nhiều bất cập cần giải quyết.

Những hạn chế yếu kém nêu trên do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là đến nay ngành Du lịch vẫn chưa có chương trình, kế hoạch dài hạn về phát triển nguồn nhân lực để định hướng đúng, có hệ thống và đáp ứng yêu cầu đặt ra. Vì vậy, việc phát triển nhân lực ngành Du lịch để đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch nhanh và bền vững, thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp tích cực và hiệu quả hơn vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức của đất nước là một việc làm cần thiết, xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn. Với mục tiêu phát triển nhân lực du lịch chất lượng cao có hệ thống; tăng cường số lượng, nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp và hợp lý hóa cơ cấu nhân lực ngành Du lịch; nâng cao năng lực và chất lượng của hệ thống đào tạo du lịch đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực; nâng cao nhận thức cộng đồng về du lịch và nhân lực ngành Du lịch; tạo động lực và lợi thế thúc đẩy du lịch phát triển nhanh và bền vững, thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn./.

(1) Trên thực tế, khái niệm “lao động qua đào tạo” rất phức tạp vì hiện nay có rất nhiều hình thức và phương pháp đào tạo khác nhau, từ học nghề ngắn hạn đến cao đẳng, đại học đều có thể được xem là “lao động qua đào tạo”. Như vậy, nếu coi nguồn nhân lực chất lượng cao là lao động qua đào tạo sẽ dẫn đến một sự phân hóa lớn về trình độ của nguồn nhân lực này.

Theo TCDL
Lượt xem: 1369