Trong hành hành trình về thăm vùng đất Kinh Bắc xưa, có một ngôi chùa mà du khách không thể không ghé thăm đó là đại danh lam cổ tự Bổ Đà - nơi đây từng là một trong những trung tâm Phật giáo lớn thuộc thiền phái Lâm Tế. Ngôi chùa nằm cách Hà Nội khoảng 40 km về hướng Bắc. Chùa Bổ Đà hay còn được gọi tắt là chùa Bổ, xưa còn có tên gọi là Quan Âm tự nằm trên lưng chừng núi Bổ Đà thuộc phía bờ Bắc sông Cầu, xã Tiên Sơn, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang.
Tương truyền chùa Bổ Đà được xây dựng từ thời nhà Lý (thế kỷ XI) và được trùng tu, mở mang xây dựng vào năm 1720 (thế kỷ XVIII). Chùa thờ Phật theo thiền phái Lâm Tế, phối thờ Trúc Lâm Tam tổ (Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang) và các vị tiên thánh (Khổng Tử; Lão Tử; Thạch Linh Thần Tướng). Khu di tích chùa Bổ Đà có diện tích khoảng 51.784m2, đây là một quần thể di tích lớn với nhiều hạng mục công trình, trong đó có 4 hạng mục chính (chùa Tứ Ân, am Tam Đức, chùa Cao, khu vườn tháp)mà du khách khi đến đây sẽ được chiêm ngưỡng cũng như tìm hiểu kho báu di sản văn hóa vật thể và phi vật thể phong phú đa dạng của ngôi chùa. Năm 2016, chùa Bổ Đà đã được Nhà nước xếp hạng là Di tích Quốc gia đặc biệt.
1. Chùa Tứ Ân - Công trình kiến trúc nghệ thuật đặc sắc: Ngôi chùa mang dáng vẻ trầm mặc cổ kính, kiến trúc riêng biệt, không lẫn với bất cứ công trình tôn giáo, tín ngưỡng nào. Chùa được đặt tên Tứ Ân với hàm nghĩa Phật tử báo đáp 4 ơn nghĩa: ơn trời đất, ơn Tổ quốc, ơn cha mẹ và ơn thầy. Chùa có bố cục kiến trúc theo kiểu nội thông ngoại bế tạo bởi 18 tòa ngang, dãy dọc với tổng số gần 100 gian được liên kết liên hoàn gồm : nhà bếp, nhà Tạo soạn, nhà Tổ, nhà Tiền tế, nhà in kinh, nhà Trai, nhà Pháp, toà Tam bảo, nhà Khách, nhà Ga, nhà Gạo…Ngôichùa gồm hai lớp cổng,cổng thứ nhất cách cổng thứ hai 27 mét, được xây theo kiến trúc mang dáng dấp gác chuông thời Nguyễn. Đường từ cổng chùa vào đến Tam Bảo dài 45 mét, rộng 3,2 mét, được lát bằng những phiến đá muối có kích thước to, nhỏ khác nhau. Bao bọc xung quanh chùa Tứ Ân là hệ thống tường trình bằng đất cao từ 1,8m đến 3 mét, có tuổi đời khoảng 300 năm. Trong chùa còn lưu giữ 39 pho tượng Phật thời Lê - Nguyễn, ngoài ra còn có các pho tượng bài trí theo tín ngưỡng thờ Nho Giáo, Đạo Giáo và tín ngưỡng dân gian bản địa như tượng Thạch Linh Thần Tướng, tượng Lão Tử, Khổng Tử, thể hiện rõ dấu ấn tam giáo đồng nguyên. Đây là một trong những điểm khác biệt trong thờ tự của chùa Bổ Đà với các ngôi chùa khác trong cả nước. Với chức năng là nơi đào luyện tăng đồ của Thiền phái Lâm Tế đến nay chùa Tứ Ân còn lưu giữ được gần 2000 mộc bản kinh Phật cổ bằng gỗ thị được san khắc từ năm 1740 và nhiều đời cao tăng sau này. Bộ mộc bản kinh Phật chùa Bổ Đà đã nhận được những danh hiệu là bộ mộc bản kinh phật khắc bằng gỗ thị cổ nhất Việt Nam năm 2016; được công nhận là Bảo vật quốc gia năm 2017.
2. Khu vườn tháp lớn nhất Việt Nam: Có diện tích gần 8000m2, với hơn 100 ngôi tháp, là nơi tàng lưu xá lị, tro cốt nhục thân của hơn 1200 nhà sư tu hành của dòng thiền Lâm Tế. Phần lớn các toà tháp được xây dựng dưới thời hậu Lê (thế kỷ XVIII) và thời Nguyễn (thế kỷ XIX). Vườn tháp được chia làm 2 khu: khu trên là nơi lưu giữ tro cốt xá lỵ của sư tăng (trên đỉnh tháp có trang trí hình bình cam lộ), khu dưới là nơi lưu giữ tro cốt xá lỵ của sư ni (trên đỉnh tháp có trang trí hình bông sen). Các ngôi tháp đều được xây bằng gạch và đá bằng kỹ thuật truyền thống bắt mạch vôi mật mía. Một trong những điểm độc đáo khác biệt ở vườn tháp đó là: Tất cả các tháp đều có cửa dạng cuốn vòm nhìn về hướng Đông Bắc (theo triết lý của nhà Phật đó là hướng trí tuệ, giải thoát).Tháp thường đặt ít nhất 4-5 xá lị, có tháp đặt tới 26 xá lị và chỉ những người trong phái Sơn Môn mới được an táng tại vườn tháp. Năm 2016, Vườn tháp chùa Bổ Đà được Hội kỷ lục gia Việt Nam công nhận là ngôi chùa có vườn tháp lớn nhất Việt Nam.
Vườn tháp chùa Bổ Đà - Ảnh Xuân Khương 3. Chùa Cao(hay chùa Quán Âm)- Nơi lưu truyền " tích cầu con":
Chùa tọa lạc trên núi Phượng Hoàng,nơi đây còn lưu truyền về “tích cầu con”. Ngôi chùa được bắt nguồn bằng truyền thuyết có một ông tiều phu tốt bụng nhưng đến 40 tuổi rồi vẫn chưa có con. Một hôm tiều phu vác rìu đi đốn gỗ thì gặp một gốc thông già. Người tiều phu dùng búa đốn gốc thông. Điều kỳ diệu đã xuất hiện tại đây. Mỗi nhát bổ, người tiều phu lại niệm “Quan thế âm Phật”. Mỗi câu niệm một đồng tiền rơi ra. Sau đó, ông nhặt được 32 đồng tiền, lấy làm lạ, ông tìm gặp một cao tăng. Được cao tăng nói đây là 32 điều ứng trong Phật Pháp. Tiều phu mong ước có 1 đứa con và sẽ lập miếu thờ nếu điều mong ước thành sự thật. Sau đó, vợ người tiều phu sinh được một người con trai, ông dựng lên một ngôi chùa nhỏ tại gốc cây thông già, mái chùa lợp gianh và tô một pho tượng Quan âm Tống Tử để hương khói phụng thờ. Câu chuyện lan truyền, nhiều người qua lại cúng bái và cầu nguyện đều thấy linh nghiệm. Từ đó ngôi chùa trở nên nổi tiếng, thành điểm đến tâm linh của nhân dân quanh vùng. Chùa được gọi là chùa Cao, chùa Quán Âm. Dân gian còn gọi bằng cái tên gần gũi chùa Ông Bổ hay chùa Bổ Đà.Chùa Cao có bình đồ kiến trúc kiểu chữ Nhị gồm toà Tiền đường 1 gian và tòa Thượng điện 1 gian. Tường chình bằng đất, phủ vữa vôi mật, mái lợp ngói mũi. Trong tòa thượng điện có đặt tượng Quan Thế Âm Bồ Tát có từ rất lâu đời, đây là bức tượng cổ nhất trong quần thể thắng tích chùa Bổ Đà, được tạo tác sau khi xây dựng chùa Quán Âm (chùa Cao) - khoảng thế kỷ XVII-XVIII.
4. Am Tam Đức - Nơi giáo dục trí, đức: Được xây dựng cùng thời gian với chùa Tứ Ân khoảng từ năm 1740 đến năm 1786. Am Tam Đức nghĩa là mong ước người tu hành tại đây sẽ được thông tuệ 3 đức tính: Trí đức, đoạn đức và ân đức.Trí đức có nghĩa là, người tu hành cần phải dùng trí tuệ quán sát các pháp. Nhờ quán sát như thế, người tu hành mới tìm ra con đường giải thoát kiếp luân hồi. Đoạn đức là chỉ cho đoạn dứt hết các thứ vô minh phiền não. Ân Đức là do nguyện lực của Phật và Bồ tát luôn luôn cứu độ chúng sinh. Người có ân đức là người luôn có tâm hồn rộng lượng bao dung tha thứ và làm lợi ích cho muôn loài. Am Tam Đức hiện nay là công trình mới được trùng tu, tôn tạovào năm 2010, có bình đồ kiến trúc theo kiểu chữ nhất gồm 5 gian, trong đó 3 gian giữa được xây kiểu chồng diêm 2 tầng. Đây là nơi thờ Phạm Kim Hưng (Như Thị) , vị sư trụ trì có công mở mang xây dựng am vào thế kỉ 18.
5. Ao Miếu - Nơi thờ Thạch Linh Thần: Thạch linh thần Tướng hày còn được gọi là Thạch tướng quân, khu thờ chính tập trung tại quần thể đá thiêng thuộc khu vực Ao Miếu, thôn Hạ Lát. Tại đây nổi lên các khối đá lớn nằm xen cài lên nhau giữa một ao nhỏ mang tên “Thạch Long”. Tương truyền ngày xưa trong vùng có vợ chồng trưởng giả tên Nguyễn Hiền nhưng hiếm muộn con. Nơi ông ở có một bàn đá lớn. Một hôm ông ra bàn đá nhìn thấy một con rắn hoa dài khoảng 10 trượng, vây đủ màu sắc, nhìn thấy người con rắn trườn xuống nước. Không lâu sau, mẹ đá sinh được một cậu con trai. Thấy lạ, vị trưởng giả liền chạy ôm đứa con mang về nhà nuôi và đặt tên là Thần tướng. Năm lên 10 tuổi cậu bé cao tầm 10 trượng, sức đủ lay non lấp biển. Lúc đó giặc Man trong vùng nổi lên, cậu xin vua đi dẹp giặc. Khi giặc tan, cậu trở về dãy núi Phượng Hoàng và bay lên trời. Nhân dân trong vùng tưởng nhớ công lao của cậu nên đã lập đền thờ tại đây.
6. Lễ hội Bổ Đà - Đặc sắc miền Quan họ: Hằng năm 16 đến 18 tháng hai Âm lịch, chính quyền và nhân dân trong vùng long trọng tổ chức lễ hội Bổ Đà . Trung tâm của lễ hội là đền Trung ở sườn Nam, đền Thượng trên đỉnh núi, chùa Quan Âm phía Bắc và chùa Tứ Ân ở chân núi Phượng Hoàng…Lễ hội diễn ra trong không gian văn hóa đặc trưng của vùng Kinh Bắc, đặc biệt bên cạnh các trò chơi dân gian truyền thống lễ hội chùa Bổ Đà hằng năm thường gắn liền với hội thi hát quan họ nhân dịp đầu xuân đã và đang trở thành nơi gặp gỡ giao lưu của các liền anh liền chị và những người yêu mến làn điệu dân ca trữ tình này, đồng thời làm sống lại không gian sinh hoạt văn hóa của một di sản thế giới. Đến với Bổ Đà, du khách không chỉ được đắm mình trong khung cảnh thiên nhiên hữu tình mà còn được thưởng thức những canh hát quan họ thâu đêm, thả hồn mình trong những làn điệu quan họ trữ tình say đắm lòng người.
Theo dòng chảy của thời gian, những dấu xưa tích cũ vẫn còn hiện hữu trên ngôi chùa Bổ Đà, về thăm Bổ Đà trong không gian tĩnh lặng du khách sẽ cảm nhận một không gian rất riêng, rất đặc biệt mà hiếm nơi nào có được từ những mảng tường trình rêu phong cổ kính, từ ngôi chùa cổTứÂn lạc bước không biết lối ra, từ huyền thoại về tích cầu con, từ những giai điệu ngọt ngào sâu lắng của các liền anh, liền chị quan họ...Có lẽ nơi đây sẽ còn để lại nhiều ấn tượng và hoài niệm cho du khách mỗi khi có dịp đặt chân tới ngôi chùa rất linh thiêng và giàu tính huyền thoại này. Văn Dương