Thông tin du lịch Bắc Giang

Trang chủ Du lịch công cộng Khám phá Nghiên cứu và Trao đổi Dân ca quan họ - Sức lan tỏa ngàn đời

Dân ca quan họ - Sức lan tỏa ngàn đời

Kinh Bắc xưa, nay là Bắc Giang - Bắc Ninh được ngăn chia bởi dòng sông Cầu (sông Như Nguyệt), bờ Nam thuộc tỉnh Bắc Ninh còn bên này là Bắc Giang. Cư dân hai bên sông nổi tiếng với những làn điệu dân ca quan họ sâu lắng, mượt mà, những làng quan họ cổ “có lề lối”, với “khuôn vàng thước ngọc”. Nhưng lâu nay quan họ phía mạn Bắc, tức là bên Bắc Giang ít được biết đến bởi năm 2009 khi xây dựng hồ sơ trình UNESCO công nhận dân ca quan họ là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại thì nó đã được định danh là “quan họ Bắc Ninh” và từ đó người ta cứ quen với tên gọi như vậy.

 

Biểu diễn hát quan họ với giọng ca sâu lắng, mượt mà. Ảnh: Ngô Vi Quang
Biểu diễn hát quan họ với giọng ca sâu lắng, mượt mà. Ảnh: Ngô Vi Quang

 

Nuôi dưỡng những mạch nguồn dân ca

Bao đời nay, người dân đôi dòng sông Cầu vẫn quan niệm, đã chơi quan họ thì phải “tinh mới tường”, tức là phải hiểu, phải chơi có lề có lối, thanh cao và phải hát bằng cả trái tim. Cũng bởi thế người quan họ mới có câu: “Xưa kia nam nữ trẻ già/ Ai mà ca được ắt là hiển vinh/ Ngẫm xem các giọng cho tinh/ Ai mà ca được hiển vinh muôn đời”. Ở mạn Bắc sông Cầu, làng Trung Đồng, xã Vân Trung; làng Đình Cả, xã Quảng Minh hay làng Tam Tầng, xã Quang Châu (Việt Yên, Bắc Giang)... có những nghệ nhân cao tuổi vẫn say mê câu hát, tự nguyện truyền dạy vốn văn hóa dân tộc cho thế hệ sau. Các cụ biết hát quan họ từ khi “Răng non trắng tựa như ngà - Đến nay trơ lợi vẫn ca rõ nhời” và vẫn thuộc cả trăm bài quan họ cổ, “biết đủ lối, thuộc đủ câu”.

Ở Bắc sông Cầu cũng có những làng quan họ cổ với sinh hoạt “độc nhất vô nhị” như Thổ Hà - nơi duy nhất vẫn giữ được lối hát canh cổ truyền, nơi có cảnh hát đón bạn trên sông mà khắp vùng Kinh Bắc không đâu có được. Nghệ nhân Phú Hiệp ở làng này vẫn nằm lòng vanh vách mấy trăm bài đối đáp cổ. Đứng bên bến đò Thổ Hà, trong không gian trên bến dưới thuyền mênh mang sóng nước, các làn điệu quan họ cổ như Gọi đò, Ngồi tựa mạn thuyền, Giã bạn... ra đời từ chính không gian ấy.

Làng Trung Đồng có một số bài quan họ cổ độc đáo, không chỉ khác về lời mà nhịp điệu còn chậm hơn. Nếu quan họ có bài “Giã bạn” thì ở riêng Trung Đồng có bài “Dặn bạn” hay như một số bài quan họ lạ chỉ có ở đây như: “Ông lang Nhẫn ngồi tu trên núi”, “Nó đi tìm cảnh nó chơi”, “Vợ chồng chẳng mấy ai bằng”… Tất nhiên, dù mỗi làng quan họ có những thế mạnh, phong cách và “chất” riêng nhưng tựu chung lại vẫn phải thể hiện các điệu: hừ la, la rằng, la bạn, giọng vặt, giọng kết, giọng giã, hát đối, hát canh, hay “vang, rền, nền, nảy”...

 

Liền anh, liền chị Bắc sông Cầu biểu diễn hát quan họ truyền thống. Ảnh: Đông Khánh
Liền anh, liền chị Bắc sông Cầu biểu diễn hát quan họ truyền thống. Ảnh: Đông Khánh

 

Theo tài liệu nghiên cứu của tác giả Trần Linh Quý năm 1971 thì Hà Bắc (cũ) có 49 làng quan họ, trong đó Bắc Ninh có 44 làng, Bắc Giang có 5 làng (Giá Sơn, Mai Vũ, Sen Hồ, Nội Ninh, Hữu Nghi). Theo điều tra của Viện Văn hóa, Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam, Bắc Giang có thêm 13 làng quan họ cổ đều thuộc huyện Việt Yên (tức bờ Bắc sông Cầu). Sau này chính tác giả Trần Linh Quý đã thừa nhận, khi nghe các nghệ nhân ở mạn Bắc sông Cầu như Thổ Hà, Mật Ninh, Thần Chúc, Trung Đồng, Lát (Thượng Lát và Tiên Lát) hát đôi, hát đối với giọng thật, âm thanh vang, rền, nền, nảy, ngắt, rớt… ông có cảm giác như còn dấu vết quen thuộc của tiếng hát mà chính mình đã nghe các cụ ông, cụ bà ở Bồ Sơn, Khả Lễ, Đào Xá, Viêm Xá… (Bắc Ninh) hát vào những năm 70 của thế kỷ trước. Như thế, phải chăng quan họ cổ đâu chỉ có 49 làng như hồ sơ trình lên UNESCO? Có lẽ cách hiểu phạm vi không gian “hẹp” trong cụm từ “Quan họ Bắc Ninh” tương ứng với địa phận tỉnh Bắc Ninh là một trong những nguyên nhân khiến các nhà sưu tầm, nghiên cứu quan họ chỉ chủ yếu tập trung tìm hiểu các làng quan họ phía Nam sông Cầu. PGS. TS Bùi Quang Thanh - Viện Văn hóa, Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam cho rằng, chắc chắn quan họ vốn không bó hẹp trong phạm vi của 49 làng. Bằng chứng là sau hơn 2 tháng điền dã, trong đó có nhà nghiên cứu Trần Linh Quý tham gia, đoàn đã ghi âm được khoảng 50 bài quan họ cổ (ở mạn Bắc sông Cầu) chưa từng được công bố trước đó. Một số bài mang tính dị bản như ở làng Đình Cả, xã Quảng Minh (Việt Yên). Đoàn cũng được nghe hàng chục bài quan họ với các giai điệu cổ ở Trung Đồng (giọng bỉ, giọng sổng). Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, chính cái “dị bản”, “lời ca lạ” này mới là quan họ gốc. Trong quá trình điều tra điền dã, các cụ cao niên khuyên đoàn cần bám vào câu tục ngữ vốn lưu hành khắp vùng từ trước năm 1945: “Thượng Chí Duổm - Hạ Lục Đầu”, có nghĩa là men theo sông Cầu kéo dài từ Đuổm (thuộc huyện Phú Lương, Thái Nguyên) đến Lục Đầu (các làng thuộc huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang). Những nơi đó năm xưa các liền anh, liền chị đã từng khăn gói lần hồi đến nhiều nơi để “chơi” quan họ suốt kỳ giêng, hai và mùa lễ hội…

Sức lan tỏa mạnh mẽ

Cố nhạc sĩ Phó Đức Phương từng viết: “Trên quê hương quan họ, một làn nắng cũng mang điệu dân ca”. Đúng thế, có hòa mình vào những canh hát quan họ ở Kinh Bắc mới cảm nhận, thấm thía mạch nguồn của dòng chảy văn hóa quan họ trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Hàng loạt các làng quan họ thuộc Bắc sông Cầu có tục kết chạ với các làng quan họ thuộc tỉnh Bắc Ninh (Nam sông Cầu): làng Thổ Hà kết chạ với làng Diềm; làng Trung Đồng kết chạ với Thượng Đồng và Hạ Đồng; làng Nội Ninh kết chạ với làng Hàn, Diềm; làng Mai Vũ kết chạ với Chấp Bút; làng Hữu Nghi kết chạ với Cao Lôi; làng Tiên Lát kết chạ với Bịu Sim… Chính nhờ mối kết chạ này, các nghệ nhân quan họ từ hai phía có sự gắn bó, giao lưu và sáng tạo trong sinh hoạt văn hóa. Dân ca ấy đã từ làng bước ra thế giới để trở thành di sản của nhân loại.

 

Liền chị Bắc sông Cầu trong trang phục biểu diễn. Ảnh: Đông Khánh
Liền chị Bắc sông Cầu trong trang phục biểu diễn. Ảnh: Đông Khánh

 

Năm 2009 khi dân ca quan họ được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại thì quan họ nhận được sự quan tâm và đặc biệt là từ du khách trong và ngoài nước. Ở phía Bắc sông Cầu (chủ yếu là huyện Việt Yên) đã có các mô hình xã hội hóa rất thiết thực trong hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị dân ca quan họ như: Trại hè Bagico dành cho thiếu nhi với thương hiệu chương trình “Em yêu làn điệu dân ca” vào dịp hè hằng năm. Từ hoạt động này đã xuất hiện những em nhỏ mới 5-6 tuổi đã được ông, bà, cha, mẹ truyền dạy và thành thạo nhiều làn điệu dân ca quan họ cổ được xem là khó hát. Câu lạc bộ Văn hóa quan họ tỉnh Bắc Giang quy tụ được đông đảo lớp người trung niên, cao tuổi đam mê truyền dạy di sản... Điều này thêm khẳng định những giá trị văn hóa độc đáo của dân ca quan họ có sức hấp dẫn và lan tỏa mạnh mẽ, trở thành nhu cầu tự thân trong cộng đồng. 

Quan họ Bắc sông Cầu cũng có những nghệ nhân, nghệ sĩ vinh d được mời tham gia biểu diễn tại nhiều quốc gia trên thế giới nhằm giới thiệu, quảng bá di sản tới bạn bè quốc tế. Đặc biệt, năm 2012 nhân kỷ niệm 40 năm thành lập UNESCO tại Paris (Pháp), có tổ chức phần trình diễn văn hóa phi vật thể của hơn 160 quốc gia. Đại diện cho đoàn Việt Nam, cặp hát Phú Hiệp - Đăng Nam (làng Thổ Hà) đã được mời biểu diễn.

Ngoài ra, tỉnh Bắc Giang đã có nhiều chương trình nghiên cứu, sưu tầm các làn điệu quan họ cổ, mở lớp truyền dạy, hỗ trợ thành lập các câu lạc bộ, hỗ trợ tăng âm loa đài, xây dựng nhà văn hóa - nơi tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ… Không chỉ ở những làng quan họ gốc, phong trào hát quan họ đã phát triển rộng khắp hầu hết các thôn, làng trong toàn tỉnh. Một trong những điểm nhấn trong bảo tồn quan họ là Liên hoan hát quan họ được duy trì hàng chục năm qua tại Lễ hội Bổ Đà, góp phần thực hiện cam kết của Việt Nam nói chung, tỉnh Bắc Giang nói riêng với UNESCO trong việc bảo tồn, phát huy hiệu quả dân ca quan họ.

Theo Tạp chí Du lịch
Ngày cập nhật: 12/07/2022 Lượt xem: 1134